Nhiệm vụ cơ bản và quan trọng
Chuyển đổi năng lượng xanh là nhiệm vụ cơ bản và quan trọng nhất trong quá trình thực hiện mục tiêu tăng trưởng xanh cũng như thực hiện các cam kết của Việt Nam tại Hội nghị lần thứ 26 các Bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP26), đồng thời cũng là cơ hội để ngành GTVT có sự phát triển đồng bộ theo hướng hiện đại hóa và bền vững, bắt kịp với xu thế và trình độ phát triển tiên tiến của thế giới.
Chuyển đổi năng lượng xanh trong ngành GTVT có nền tảng là sự chuyển đổi công nghệ mạnh mẽ, vì vậy cần dựa vào thể chế và quản trị hiện đại, khoa học và công nghệ tiên tiến, nguồn nhân lực chất lượng cao. Việc thực hiện chuyển đổi năng lượng xanh của ngành GTVT cần xây dựng lộ trình hợp lý, phù hợp với khả năng huy động nguồn lực, đảm bảo tính khả thi, hiệu quả và bền vững trong thực hiện thông qua các chương trình, kế hoạch hành động cụ thể.
Phát triển hệ thống giao thông vận tải xanh nhằm hướng tới mục tiêu phát thải ròng khí nhà kính về “0” vào năm 2050. Cụ thể, giai đoạn đến năm 2030 sẽ đẩy mạnh chuyển đổi sử dụng năng lượng xanh đối với các lĩnh vực thuộc Ngành đã sẵn sàng về mặt công nghệ, thể chế, nguồn lực. Giai đoạn đến năm 2050 sẽ thực hiện mạnh mẽ việc chuyển đổi toàn bộ phương tiện, trang thiết bị GTVT sang sử dụng điện, năng lượng xanh, hướng đến phát thải ròng khí nhà kính về “0” vào năm 2050.
Theo Bộ GTVT, năm 2019, ngành GTVT phát thải khoảng 45 triệu tấn CO2, dự báo tăng trung bình 6 - 7%/năm và đạt gần 90 triệu tấn vào năm 2030. Trong đó, vận tải đường bộ là nguồn phát thải CO2 cao nhất, chiếm khoảng 80% lượng phát thải toàn ngành, vận tải đường thủy (nội địa và ven biển) chiếm 10%; hàng không chiếm 6%; đường sắt không đáng kể.
Cũng theo nhận định của Bộ GTVT, lượng phát thải do các hoạt động GTVT Việt Nam khá cao, chủ yếu do tỷ lệ phương tiện lạc hậu, quá niên hạn sử dụng cao. Ngoài ra, mạng lưới kết cấu hạ tầng chất lượng kém, kết nối chưa thuận lợi dẫn đến nhiều ách tách. Đồng thời, hoạt động tổ chức vận tải chưa hiệu quả, trong đó vận tải đường bộ chiếm tỷ trọng lớn với tỷ lệ xe chạy rỗng nhiều, giao thông công cộng còn khiêm tốn.
Tính đến hết năm 2021, cả nước có hơn 4,5 triệu xe ô tô, gần 60 triệu phương tiện cá nhân hai bánh chủ yếu sử dụng nhiên liệu xăng, dầu diesel.
Ngành Đường sắt hiện có 244 đầu máy 100% chạy dầu diesel, trong đó tỷ lệ đầu máy cũ sản xuất trên ba thập kỷ chiếm tới hơn 37%. Cụ thể, hiện có tới 29 đầu máy sản xuất từ năm 1963, 27 đầu máy sản xuất năm 1978, 35 đầu máy sản xuất từ năm 1985.
Đường thủy nội bộ hiện có hơn 233 nghìn phương tiện có độ tuổi bình quân 13,2 năm. Tàu hàng chiếm tỷ lệ 87,5% với 204 nghìn chiếc, tàu khách chiếm 12,5% (29 nghìn chiếc). Ngoài ra còn có hơn 2.700 phương tiện vận chuyển VR-SB (sông pha biển).
Số đội tàu biển là 1.555 tàu với tuổi bình quân là 16,7 năm, trẻ hơn 5 năm so với thế giới. Số tàu bay của Việt Nam hiện có hơn 233 chiếc. Tuổi trung bình đội tàu bay là 6,2 năm, khá trẻ so với tuổi trung bình tàu bay thế giới.
Hệ thống logistics tại các cảng hàng không, đường thủy, đường sắt, đường bộ chủ yếu sử dụng nhiên liệu xăng và dầu diesel. Trang thiết bị bốc xếp tại các ga đường sắt, bến tàu thủy nội địa sử dụng công nghệ cũ, lạc hậu. Đa số trang thiết bị sử dụng ở các cảng biển là thiết bị nhập khẩu, tuy nhiên tỷ lệ cảng sử dụng trang thiết bị bốc xếp chạy điện chưa nhiều, chủ yếu ở các cảng lớn là Quảng Ninh, Hải Phòng, Đà Nẵng, cảng khu vực TP. Hồ Chí Minh và Vũng Tàu.
Chuyển đổi giao thông xanh cho đô thị
Dự kiến đến năm 2050, khoảng 70% dân số Việt Nam sẽ tập trung tại các khu vực đô thị. Chính vì vậy, việc chuyển đổi giao thông xanh cho đô thị là vấn đề đang được quan tâm.
Theo kinh nghiệm của các quốc gia đi trước, phương tiện giao thông công cộng, với các phương thức vận tải khối lượng lớn như MRT và BRT là giải pháp chính để giải quyết vấn đề lưu thông đô thị. Bên cạnh đó cần kết hợp các giải pháp giao thông phi cơ giới (xe đạp, đi bộ), tăng cường kết nối liên khu, giữa vùng trung tâm và các khu đô thị vệ tinh với nhau.
Theo dự thảo, lộ trình chuyển đổi giao thông xanh trong đô thị giai đoạn từ nay đến năm 2030: Từ năm 2025 thay thế 100% xe buýt mới sử dụng điện, năng lượng xanh; tỷ lệ đảm nhận vận tải công cộng tại Hà Nội đạt 45 - 50%, TP. Hồ Chí Minh đạt 25%, Đà Nẵng đạt 25 - 35%, Cần Thơ đạt 20%, Hải Phòng đạt 10 - 15%, đô thị loại I đạt ít nhất 5%.
Giai đoạn 2031 - 2050: Từ năm 2030, tỷ lệ phương tiện sử dụng điện, năng lượng xanh đạt tối thiểu 50%; 100% xe taxi thay thế, đầu tư mới sử dụng điện, năng lượng xanh. Đến năm 2050: 100% xe buýt, xe taxi sử dụng điện, năng lượng xanh; tỷ lệ đảm nhận của vận tải hành khách công cộng tại các đô thị đặc biệt, đô thị loại I lần lượt đạt ít nhất 40% và 10%.
Các giải pháp được đưa ra để đạt được lộ trình này là: quy hoạch và xây dựng hệ thống hạ tầng cung cấp điện, năng lượng xanh cho phương tiện giao thông tại các đô thị; đẩy nhanh tiến độ đầu tư và đưa vào khai thác các tuyến đường sắt đô thị theo quy hoạch đã được phê duyệt; mở rộng, phát triển hạ tầng phục vụ phương tiện giao thông công cộng; phát triển kết cấu hạ tầng giao thông phi cơ giới, điểm trông giữ phương tiện kết nối hợp lý với các phương thức vận tải hành khách công cộng khác.
Bộ Xây dựng có trách nhiệm chủ trì hoàn thiện chính sách ưu tiên phát triển hạ tầng giao thông đô thị cho phương tiện giao thông sử dụng điện, năng lượng xanh; rà soát các quy định, tiêu chuẩn thiết kế đường đô thị có đường dành riêng cho phương tiện điện và giao thông phi cơ giới.