Ngành vận tải biển chiếm khoảng 80% thương mại toàn cầu và khoảng 3% lượng khí thải carbon toàn cầu.
Roel Hoenders, Trưởng bộ phận Ô nhiễm không khí và Tiết kiệm Năng lượng tại Tổ chức Hàng hải Quốc tế (IMO) giải thích rằng, việc khử carbon trong ngành vận tải biển sẽ là một bước quan trọng trong việc chống lại biến đổi khí hậu nhưng việc tăng khả năng chi trả của các loại nhiên liệu mới tham gia vào thị trường vận tải biển toàn cầu là chìa khóa quan trọng.
Theo Reuters, trước đó, ngành vận tải biển chiếm khoảng 80% thương mại toàn cầu và khoảng 3% lượng khí thải carbon toàn cầu. “Thách thức lớn mà chúng ta đang phải đối mặt hiện nay là sự chênh lệch giá đáng kể giữa dầu nhiên liệu nặng, loại dầu tương đối rẻ, có sẵn ở khắp mọi nơi trên thế giới và các loại nhiên liệu thay thế carbon thấp này. Khoảng cách giá này cần được thu hẹp lại”, Hoenders cho biết.
Ngoài việc chuyển sang sử dụng nhiên liệu ít carbon hơn, Hoenders cho biết điều quan trọng là tổng lượng phát thải khí nhà kính của các phương tiện vận tải biển cũng được tính đến.
Công nghệ mới chống biến đổi khí hậu
Ngoài việc thay đổi nguồn nhiên liệu, các công nghệ mới đang được phát triển và lắp đặt trên tàu để giúp giảm thiểu tác động của khí hậu đối với vận tải biển. Hoenders đã chỉ ra các ví dụ như bảo dưỡng thân tàu tốt hơn với các lớp phủ khác nhau, thay đổi chân vịt, cấu hình mũi tàu khác nhau để cải thiện luồng không khí của tàu và giảm thiểu tiêu thụ năng lượng.
“Chúng tôi cũng thấy ngày càng có nhiều tàu lắp đặt năng lượng gió trên tàu và ngoài ra tất nhiên cũng đã có một số nhiên liệu thay thế như nhiên liệu sinh học, metanol và các nhiên liệu khác có sẵn trên thị trường sẽ giúp cải thiện hiệu quả năng lượng của tàu“, Hoenders cho biết thêm.
Theo Hoenders, nhìn chung những gì chúng ta thấy là các quy định về khí hậu của IMO thực sự thúc đẩy sự đổi mới của ngành vận tải biển trên toàn thế giới. IMO, một cơ quan của Liên Hợp Quốc chịu trách nhiệm quản lý ngành vận tải biển, lần đầu tiên đưa ra các yêu cầu bắt buộc về hiệu quả năng lượng đối với lĩnh vực này cách đây 10 năm. Các quy định yêu cầu rằng tất cả các tàu mới phải tiết kiệm năng lượng hơn.
“Vào năm 2018, IMO đã nhất trí về một thỏa thuận mang tính bước ngoặt là chiến lược khí nhà kính ban đầu của chúng tôi, đặt ra mục tiêu giảm thiểu CO2 cho đội tàu toàn cầu hơn 50.000 tàu hiện nay. Các quốc gia thành viên IMO đã nhất trí đến năm 2030, cường độ carbon của đội tàu toàn cầu phải giảm 40% so với năm 2008 và đến năm 2050, tổng lượng khí thải nhà kính của vận tải biển quốc tế giảm 50%”, Hoenders nói.
Giá các loại nhiên liệu thay thế carbon thấp cao hơn so với dầu nhiên liệu nặng là thách thức lớn đối với vận tải biển.
Chuyển sang sử dụng dầu nhiên liệu có hàm lượng lưu huỳnh thấp
Theo Alarabiya News, vào năm 2020, IMO đã thực hiện một quy định toàn cầu mới về nhiên liệu hàng hải, giới hạn hàm lượng lưu huỳnh ở mức không quá 0,5%, giảm từ 3,5%, nhằm giảm phát thải oxit lưu huỳnh. Quy định này đã được công bố vào năm 2016 trước khi có hiệu lực từ ngày 1/1/2020.
Để đáp ứng các quy định mới, ngành vận tải biển đã chuyển sang sử dụng dầu nhiên liệu có hàm lượng lưu huỳnh thấp (LSFO) để tuân thủ, mặc dù điều này có thể thay đổi do giá LSFO chênh lệch với dầu nhiên liệu nặng.
“Hiện nay sự chênh lệch giá giữa dầu nhiên liệu nặng và dầu nhiên liệu có hàm lượng lưu huỳnh thấp đang trở lại lớn hơn, chúng tôi nhận thấy sự xuất hiện của máy lọc ở một số tàu. Tuy nhiên, do một số hạn chế địa phương liên quan đến việc sử dụng máy lọc ở một số cảng trên thế giới, phương tiện tuân thủ chính và vẫn là nhiên liệu có hàm lượng lưu huỳnh thấp”, Hoenders giải thích.
Vào thời điểm đó, việc thực hiện quy định năm 2020 dẫn đến lo ngại rằng ngành lọc dầu, cung cấp nhiên liệu cho lĩnh vực vận tải biển, sẽ không đủ để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng đối với LSFO. Tuy nhiên, những lo ngại này đã được chứng minh là không có cơ sở, với việc ngành công nghiệp lọc dầu sử dụng thời hạn 4 năm theo quy định để giải quyết mọi vấn đề về nguồn cung tiềm năng, Hoenders cho biết.